Làm công việc so sánh những ý tưởng trong giấc mơ và giấc mơ thực sự diễn ra, chúng ta biết được những điều không chờ đợi, ví dụ như chúng ta thấy rằng ngay những điều khó hiểu trong giấc mơ cũng có một ý nghĩa đặc biệt...
Làm công việc so sánh những ý tưởng trong giấc mơ và giấc mơ thực sự diễn ra, chúng ta biết được những điều không chờ đợi, ví dụ như chúng ta thấy rằng ngay những điều khó hiểu trong giấc mơ cũng có một ý nghĩa đặc biệt. Về điểm này, sự trái ngược giữa quan niệm y học và quan niệm phân tâm học về giấc mơ tới một mức độ ghê gớm đến nỗi trở thành tuyệt đối không giải quyết được. Theo quan niệm trên thì giấc mơ chẳng có nghĩa lý gì cả, vì tinh thần mà giấc mơ là hậu quả mất hết khả năng phê phán; theo quan niệm sau thì giấc mơ trở thành vô nghĩa lý một khi ngay trong giấc mơ người ta đã phê phán là điều đó thực vô nghĩa lý. Ví dụ như việc mua ba vé giá 1 fl.50 mà chúng ta đã thấy. Sự phê phán trong dịp này: lấy chồng sớm quá là một điều không hiểu được (hay là một điều dại dột).
Trong công việc xây dựng giấc mơ, chúng ta cũng biết điều gì tương ứng với những sự nghi ngờ, bất định của người nằm mơ, nghĩa là có thực một yếu tố nào đã được diễn tả trong giấc mơ hay không, và yếu tố này có đúng như điều mà mình nghĩ hay không hay là một điều khác. Không có gì trong giấc mơ tiềm tàng cho ta biết về những điều nghi ngờ, bất định đó; chúng chỉ là hậu quả của sự kiểm duyệt thôi và phải được coi như một mưu toan gạt bỏ được sự dồn ép.
Một trong các nhận xét làm mình ngạc nhiên nhất là nhận xét liên quan đến các công việc xây dựng dùng để giải quyết những sự trái ngược nhau trong giấc mơ tiềm tàng. Chúng ta đã biết là những yếu tố tương tự trong giấc mơ tiềm tàng được thay thế bằng những sự cô đọng trong giấc mơ rõ ràng. Nhưng những sự trái ngược cũng được giải quyết như những sự giống nhau và cũng được diễn tả bằng một yếu tố như nhau trong giấc mơ rõ ràng. Vì thế nên một yếu tố có điểm trái ngược trong giấc mơ rõ ràng cũng có thể có ý nghĩa, chúng ta phải tuỳ theo ý chính mà giải thích. Vì thế cho nên chúng ta mới hiểu tại sao trong giấc mơ không hề có hình dung câu trả lời không bao giờ.
Cách làm việc kỳ lạ của công việc xây dựng có một điểm tương tự trong công việc phát triển ngôn ngữ. Nhiều nhà ngôn ngữ học nhận thấy rằng trong ngôn ngữ thời cổ có những sự trái ngược như: yếu khoẻ, rõ ràng tăm tối, lớn nhỏ đều được diễn tả cùng một gốc (nghĩa trái ngược trong những tiếng cổ xưa). Ví dụ như trong tiếng cổ Ai Cập ý khoẻ và yếu đều được diễn tả bằng tiếng ken. Khi nói người ta dùng giọng cao hay thấp để phân biệt hai nghĩa; khi viết người ta thường vẽ thêm một hình ảnh không được đọc lên. Người ta viết chữ ken khoẻ bằng cách vẽ bên cạnh một người đứng thẳng dậy; và ken yếu bằng hình ảnh một người đang ngồi xổm. Mãi sau này người ta mới dần dần thay đổi và dùng những chữ riêng để diễn tả hai ý trái ngược. Vì thế người ta đã chia chữ ken ra thành hai chữ ken khoẻ và ken yếu. Một vài ngôn ngữ trẻ hơn và một vài sinh ngữ ngày nay còn giữ lại được dấu vết của sự trái ngược cổ xưa đó. Xin đơn cử một vài ví dụ theo C.Abel (1884).
Tiếng La Tinh có những tiếng nhiều nghĩa như sau:
Altus (cao, sâu, xa) và sacer (thiêng liêng và sự địa ngục).
Và đây là một vài ví dụ về những sự thay đổi trong chữ gốc :
Clamere (kêu); clam (yên lặng, dịu dàng, bí mật); siccus (khô) và succus (nước, đường).
Và tiếng Đức:
Stimme (giọng nói và stumm (câm).
So sánh những sinh ngữ có họ hàng với nhau chúng ta có nhiều thí dụ cùng loại:
- Anh : lock (khoá); Đức: loch (lỗ), lucke (lỗ hổng).
- Anh: cleave (bổ đôi); Đức: klenben (dán).
Tiếng Anh without theo nghĩa đen là với và không, bây giờ chỉ còn dùng một nghĩa: không; tiếng with không những chỉ được dùng theo nghĩa thêm vào (với) mà còn dùng với nghĩa loại trừ (sau straction) thí dụ như những chữ withdraw (rút lại, rút đi) withhold (từ chối, ngăn cản). Tiếng Đức wieder cũng thế.
Một điểm đặc biệt khác trong công việc xây dựng cũng có một điểm tương tự trong việc phát triển ngôn ngữ. Trong tiếng cổ Ai Cập cũng như trong một vài thứ tiếng trẻ hơn từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác cùng một tiếng, cùng một nghĩa có thể được diễn tả bằng những thanh âm trái ngược, ví dụ như những thí dụ sau đây lấy trong tiếng Đức và tiếng Anh:
Topt (dọ) pot. Boat (tàu thuỷ) tub. Hurry (vội vã) Ruhe (nghỉ) Balken (kèo) Kloben (củi); wait (đợi) tawen.
So sánh tiếng La Tinh và tiếng Đức ta có:
Capere (cầm) packen; ren (thân) Niere.
Những sự trái ngược như thế này xảy ra trong giấc mơ bằng nhiều cách khác nhau. Chúng ta đã biết những sự trái ngược về nghĩa, sự thay thế nghĩa bằng tiếng phản nghĩa. Trong giấc mơ có những sự đảo lộn trái ngược những tình trạng, những liên quan hai người hình như mọi sự đều diễc ra trong một thế giới đảo ngược. Trong giấc mơ nhiều khi chính chú thỏ rừng lại săn người thợ săn. Sự tiếp diễn của các biến cố khởi đầu nguyên nhân cho giấc mơ nhiều khi lại đi sau những biến cố đáng lẽ phải đến sau. Đúng như trong những vở chèo trong hội chợ người anh hùng ngã lăn ra chết trước khi tiếng súng nổ trong hậu trường. Có những giấc mơ trong thứ tự các biến cố bị đảo lộn hoàn toàn thành ra muốn hiểu người ta phải bắt đầu bằng biến cố xảy ra trước mắt. Hẳn các bạn còn nhớ những điều đã được trình bày trong chương nói về tính chất tượng trưng của giấc mơ, trong đó chúng tôi đã trình bày rằng nhảy xuống nước cũng đồng nghĩa với từ dưới nước đi lên, nghĩa là sinh ra hay cho ra đời cũng thế thôi, trèo thang hay xuống thang cũng có nghĩa như nhau. Người ta nhìn thấy dễ dàng đâu là những cái lợi mà sự biến dạng của giấc mơ có thể có được vì sự tự do biểu diễn này.
Những điểm đặc biệt này của công việc xây dựng phải được coi như cổ lỗ lắm. Chúng gắn liền vào với những lối diễn tả cổ xưa, những ngôn ngữ và chữ viết thời cổ, cũng gặp những khó khăn mà sau này chúng ta sẽ nói đến.
Để kết luận, chúng ta cần đưa ra một vài nhận xét phụ. Trong công việc xây dựng, tất nhiên giấc mơ phải biến đổi những ý tưởng tiềm tàng thành những hình ảnh cụ thể, có tính cách thị giác càng tốt. Vậy mà những ý tưởng này lại bắt đầu xuất hiện bằng những hình ảnh cụ thể; những vật liệu của chúng, giai đoạn đầu tiên của chúng là những cảm giác về giác quan hay nói đúng hơn là những hình ảnh kỷ niệm của các cảm giác đó. Chỉ mãi về sau những tiếng nói mới được gắn liền vào các hình ảnh và nối lại thành những ý. Vậy công việc xây dựng làm cho các ý tưởng phải đi thụt lùi, và trong sự thụt lùi này tất cả những cái gì mà sự phạt triển các hình ảnh kỷ niệm và sự biến đổi này thành ý tưởng đã đem đến cho giấc mơ như những cái gì mới thu thập được đều phải biến mất hết.
Công việc xây dựng trong giấc mơ diễn tiến như thế đó. Sự quan tâm của chúng ta đối với giấc mơ rõ ràng phải thụt lùi về sau hậu trường. Nhưng vì giấc mơ rõ ràng là điều mà chúng ta biết rõ hơn cả một cách trực tiếp, nên chúng ta sẽ dành cho nó một ít nhận xét nữa.
Giấc mơ rõ ràng dưới mắt chúng ta quả có mất đi nhiều phần quan trọng, điều này hết sức tự nhiên. Giấc mơ này có xếp đặt thành một khối hay không bị phân chia thành những mảnh nhỏ đối với chúng ta không phải là điều quan hệ. Ngay cả khi giấc mơ đó có một ý nghĩa gì chăng nữa thì ý nghĩa đó cũng bắt nguồn ở sự biến dạng của giấc mơ và không liên quan gì đến giấc mơ tiềm tàng như là bề mặt của một toà nhà thờ bên Ý, liên quan với sự kiến trúc và đồ bản của nhà thờ đó. Trong một vài trường hợp, bề mặt của giấc mơ có thể có một ý nghĩa lấy từ những yếu tố không biến dạng hay chỉ hơi biến dạng một chút nằm trong những ý tưởng tiềm tàng. Một khi chúng ta chưa giải thích được giấc mơ, chưa hiểu được mức độ của sự biến dạng thì chúng ta không thể thấy rõ điều này được. Có một điểm nghi ngờ khi hai yếu tố trong giấc mơ có vẻ như tiến lại gần nhau đến mức hoà được vào với nhau. Từ sự kiện này người ta có thể đi đến kết luận rằng, những yếu tố tương ứng của giấc mơ tiềm tàng cũng phải xích lại gần nhau hơn, nhưng trong nhiều trường hợp khác những yếu tố kết hơp với nhau trong giấc mơ tiềm tàng lại tách rời nhau ra trong giấc mơ rõ ràng.
Chúng ta không nên giải thích một phần của giấc mơ rõ ràng bằng một phần khác, coi giấc mơ như một cái gì có mạch lạc và hợp thành một sự biểu diễn có tính cách thực tế. Trong phần lớn các trường hợp, giấc mơ giống như hòn đá ngũ sắc được kết hợp lại bằng chất xi măng, do đó những hình ảnh muôn màu xuất hiện trong đó không phải là hình ảnh xác thực của những đường vòng quanh những hòn đá được kết hợp lại. Thực ra cũng có một sự xây dựng thứ hai phụ thuộc có nhiệm vụ làm cho những dữ kiện trực tiếp có ngay của giấc mơ trở thành hơi có mạch lac, nhưng xếp đặt lộn xộn không thể nào hiểu được, khi cần đến những dữ kiện này có thể được bổ túc.
Đằng khác, không nên gán cho công việc xây dựng này một tầm quan trọng quá đáng và chấp nhận nó không dè dặt. Sự hoạt động của nó biến mất dần dần do những hậu quả của chính nó: nào sự cô đọng, sự di chuyển, sự hình dung một cách cụ thể, rồi xây dựng tất cả trong một công việc xây dựng thứ hai, nó chỉ làm được có thế thôi chứ không làm được gì hơn. Nhưng sự phán đoán, phê bình, ngạc nhiên, những kết luận xảy ra trong giấc mơ không bao giờ là kết quả của công việc xây dựng, rất ít khi là hậu quả của một sự suy nghĩ về giấc mơ: đó chính là những mảnh nhỏ trong giấc mơ tiềm tàng xâm nhập giấc mơ rõ ràng sau khi đã được thay đổi chút ít. Công việc xây dựng cũng không thể tạo lập được những diễn từ. Trừ vài trường hợp rất hiếm còn những điều nghe thấy trong giấc mơ thường là tiếng vang của những điều nghe thấy hay đã nói trong ngày, những điều này được đưa vào trong giấc mơ tiềm tàng như những vật liệu kích động giấc mơ. Những sự tính toán cũng không chịu ảnh hưởng của sự xây dựng; những tính toán thấy trong giấc mơ chỉ là sự xuất hiện lộn xộn của những con số, không có nghĩa gì hay chỉ là những bản cóp lại của những sự tính toán trong giấc mơ tiềm tàng. Trong những điều kiện đó, chúng ta sẽ không ngạc nhiên nếu thấy người ta bớt quan tâm đến sự xây dựng này, dành sự chú ý cho những ý tưởng tiềm tàng do giấc mơ rõ ràng phát hiện ra trong một tình trạng bị biến dạng nhiều hay ít. Nhưng người ta sẽ lầm to nếu cứ theo chiều hướng đó mà cho rằng những ý tưởng tiềm tàng có thể được coi như chính giấc mơ rồi đem áp dụng cho nó những sự kiện thuộc về giấc mơ rõ ràng. Thực là kỳ khôi khi người ta lạm dụng những dữ kiện của môn Phân tâm học để lẫn lộn những sự việc này. Giấc mơ không là gì khác hơn là hậu quả của công việc xây dựng; vậy giấc mơ chính là hình thức mà công việc xây dựng bao quanh những ý tưởng tiềm tàng.
Công việc xây dựng là một sự hoạt động có tính chất đặc biệt chưa từng thấy trong đời sống tinh thần. Những sự cô đọng, di chuyển biến hoá thụt lùi của những ý tưởng để trở thành những hình ảnh cụ thể chính là những điều hết sức mới mẻ do công của môn phân tâm học tìm ra. Ngoài ra dựa vào sự kiện tương tự như công việc xây dựng, chúng ta nhận thấy có những dây liên lạc chặt chẽ giữa môn phân tâm học và các môn học khác, như sự tiến hoá của ngôn ngữ và tư tưởng, Các bạn chỉ thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề này sau khi biết rằng những sự hoạt động của công việc xây dựng sau này sẽ là nguồn gốc của sự phát sinh ra các chứng bệnh thần kinh.
Tôi biết là chúng ta chưa thể duyệt lại những điều ích lợi mà môn Tâm lý học có thể rút ra những nhận xét này. Tôi chỉ muốn các bạn để ý đến những bằng chứng mới của chúng ta về sự có mặt của những hoạt động tinh thần vô thức (những ý tưởng tiềm tàng trong giấc mơ chẳng khác gì hơn là những sự hoạt động tinh thần vô thức này), những cánh cửa mà sự giải thích giấc mơ đã mở cho những người nào muốn khảo cứu về đời sống tinh thần vô thức này.
Và bây giờ, tôi phân tích cho các bạn xem một vài thí dụ nhỏ về các giấc mơ để hiến cho các bạn những chi tiết những điều mà từ trước tới nay tôi chỉ nói về đại thể để sửa soạn trước, hay chỉ nói một cách khái quát và vắn tắt thôi.
(còn nữa)