Bản quyền sẽ bóp chết sáng tạo phần mềm
Phát biểu tại London tuần qua, Richard Stallman, người sáng lập dự án mã mở GNU, bày tỏ sự phản đối quan điểm hợp pháp hóa quá trình mà ông gọi là tác quyền hóa ý tưởng phần mềm.
Trọng tâm trong lập luận của cây đại thụ mã mở là nếu các công ty được phép đăng ký bản quyền ý tưởng phần mềm, thì những doanh nghiệp lớn sẽ chèn ép các đối thủ nhỏ hơn và quá trình chuyển dịch sang phần mềm tự do sẽ bị cản trở.
Stallman cảnh báo điều này sẽ gây ra một hệ quả tiêu cực nếu dự luật hiện hành ở châu Âu về các phát minh trên máy tính được thông qua mà không có gì thay đổi. Ông cho rằng những lĩnh vực khác nhau thì cần có cách tiếp cận khác nhau. Stallman lấy ví dụ bản quyền phát minh có thể thích hợp với lĩnh vực dược nhưng có thể lại không tốt cho phần mềm.
Theo Stallman, việc phê chuẩn một đạo luật về đăng ký ý tưởng phần mềm chưa thể đặt dấu chấm hết cho phần mềm miễn phí nhưng nó sẽ giết chết một phần đáng kể cộng đồng mã mở. Chắc chắn một số vẫn sẽ trụ lại. Nhưng như vậy thì cũng giống như bảo rằng có sao đâu nếu như hàng triệu người châu Phi chết vì AIDS vì vẫn còn vô khối người da đen sót lại, Stallman nói.
Ở Mỹ, nơi bản quyền phần mềm được cấp và gia hạn một cách định kỳ, các nhà phát triển độc lập phải đối mặt với thách thức rất lớn nếu muốn tránh bị mang tội xâm phạm sở hữu trí tuệ. Theo Stallman, nếu nhìn lại khối lượng khổng lồ giấy chứng nhận bản quyền đã được cấp, có thể thấy rất khó hiểu chính xác được những gì đã được cấp phép. Khi một nhà phát triển bị coi là xâm phạm tác quyền, anh ta có 3 sự lựa chọn: từ bỏ ý tưởng đó và tìm cái khác, cố gắng mua bản quyền hoặc lật đổ bản quyền cũ bằng hành động pháp lý. Không ai bị buộc phải cấp phép sử dụng ý tưởng của mình và họ cũng có thể đặt ra những điều kiện riêng để nhấn chìm một sản phẩm.
Những công ty lớn có ưu thế hơn với những danh mục bản quyền dài dằng dặc. Họ còn ký hợp đồng khai thác bản quyền chéo với đối tác khác và cũng có thể bảo vệ đến cùng sở hữ trí tuệ của mình nếu phải ra tòa.
Dự luật của châu Âu về các phát minh trên máy tính được đưa ra mới đây nhằm làm rõ trong phạm vi liên minh này về những gì nên và không nên cấp chứng nhận bản quyền. Tuy nhiên, nội dung của nó lại rất chung chung và có thể hiểu theo nhiều cách. Nhiều người nói có thể hiểu đó là cấp phép bản quyền đối với phần mềm hỗ trợ một quá trình cụ thể nào đó. Trong khi một số khác lại tin rằng thậm chí có ra tòa thì người ta cũng có thể cãi rằng luật cho phép đăng ký tác quyền đối với các phương pháp kinh doanh phần mềm.
Không mấy ai nghi ngờ việc cấp bằng sáng chế ý tưởng phần mềm sẽ có một tác động cực lớn đối với cộng đồng phần mềm tự do và theo như những gì đang diễn ra ở Mỹ, điều đó có thể phương hại những công ty nhỏ đang hoạt động trong lĩnh vực này. Tất nhiên, với lập luận và những cách ví von như của Stallman, nhiều người sẽ coi ông có cách nhìn nhận vấn đề quá lập dị và điều này sẽ càng làm khó thêm khả năng các chính trị gia lên tiếng và gây áp lực chống việc cấp bằng sáng chế ý tuởng phần mềm.
Bổ sung cho lập luận của mình, Stallman lấy ví dụ lĩnh vực âm nhạc: những ý tưởng hợp thành trong phần mềm cũng tương tự như những yếu tố tạo thành một bản nhạc. Đúng vậy, việc cấp bằng sáng chế có tác dụng bảo vệ chủ ý tưởng nhưng nó cũng ảnh hưởng tới cái hệ thống tạo ra chúng, Stallman nói. Nếu vào thế kỷ 18, chính phủ quyết định cho phép các nhạc sĩ đăng ký tác quyền thì khi sáng tác nhạc, chắc ngài Beethoven cũng khó khăn hơn khi đặt bút viết một cái gì đó mà không sợ xâm phạm bản quyền của một ai đó.
Người tự coi là vị thánh của cộng đồng GNU/Linux cho rằng giống như âm nhạc, sự tiến bộ về phần mềm phụ thuộc nhiều vào những ý tưởng có từ trước đó. Phần sáng tạo và có tính phát kiến không phải nằm ở bản thân các ý tưởng mà là những cách kết hợp mới tạo nên tổng thể khác. Stallman kết luận: Cấp bằng sáng chế cho những ý tưởng hợp thành thì không ai có thể viết ra cái gì mới nữa.
Phan Khương (theo The Register)