Trước Mác, những tác nhân ảnh hưởng hàng đầu tới lịch sử đều là những nhà lãnh đạo và những ý tưởng lớn hình thành các điều kiện sống. Nhưng theo Mác, như ông giải thích trong một đoạn văn thường được trích dẫn như sau...
Trong việc làm ra các phương tiện để tồn tại trong xã hội, con người đi vào những mối tương quan nhất định và tất yếu, không tùy vào ý muốn của họ, những mối tương quan sản xuất tương ứng với một giai đoạn phát triển nhất định của những lực lượng sản xuất vật chất của họ. Sự kết hợp các mối tương quan sản xuất này tạo thành cơ cấu kinh tế của xã hội, là cơ sở hiện thực để phát sinh một thượng cơ cấu pháp lý và chính trị và các dạng nhất định của ý thức xã hội tương ứng với cơ sở này. Phương thức sản xuất các phương tiện vật chất để tồn tại chi phối toàn thể quy trình của đời sống xã hội, chính trị và tri thức. Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ, nhưng ngược lại, chính sự tồn tại xã hội quyết định ý thức của con người.
Năm 1859, chính vào năm ông viết những dòng này, Nguồn Gốc Các Loài của Darwin đã cung cấp cho ông những minh họa phong phú. Cuộc đấu tranh để tồn tại của Darwin có vẻ chỉ là một bản sao trong lịch sử thiên nhiên các cuộc đấu tranh giai cấp của toàn thể lịch sử quá khứ của loài người. Và sự xuất hiện các ý tưởng của Darwin vào thời ấy, trong giai đoạn vàng son của chủ nghĩa tư bản Anh, cho thấy các ý tưởng là những triệu chứng chứ không phải nguyên nhân. Trong khi một số ca tụng Darwin như nhà tiên tri của chân lý khoa học và số khác kết án ông với tội phỉ báng, thì Mác đã nhìn những ý tưởng của Darwin trong một ánh sáng hoàn toàn khác. Lần đầu tiên một đòn chí mạng giáng vào tính cứu cánh trong các khoa học tự nhiên, Mác phấn khởi reo lên, rất quan trọng... làm cơ sở khoa học tự nhiên cho cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử. Thật kỳ diệu khi Darwin nhận ra giữa các động vật và thực vật cái xã hội Anh của mình với sự phân công, cạnh tranh, những thị trường mới, những sáng chế, và cuộc đấu tranh sinh tồn theo thuyết Malthus. Đó là cuộc chiến mọi người chống lại mọi người (bellum omnium contra omnes) của Hobbes và nó làm ta nhớ đến Hiện Tượng Luận của Hegels, trong đó xã hội loài người được mô tả như một vương quốc động vật tâm linh, trong khi ở Darwin, vương quốc động vật được nhìn như là xã hội loài người.
May thay, trong những lý thuyết lịch sử của Hegels, Mác đã tìm ra một cái nền hoàn hảo cho lối suy tư riêng của mình. Cũng như chúng ta có thể tự hỏi liệu Copernic có thể khám phá ra khung hệ thống của mình không nếu như đã không có sẵn hệ thống Ptolêmê để thay thế địa tâm bằng hệ nhật tâm, thì chúng ta cũng có thể tự hỏi liệu Mác có thể tìm ra điều gì không nếu ông không có lược đồ phản đề của Hegels. Nhờ truyền thống gia đình và sự đào tạo về biện chứng, Mác trở nên rất giỏi về đối kháng. Không có ví dụ nào tốt hơn về quy trình biến chứng cho bằng phản ứng của chính Mác đối với Hegels và các người khác. Trong khi tư tưởng của ông dứt khoát là được hình thành bởi Hegels, ông đã đưa Hegels vào phía đối lập ông, như ông đã giải thích trong Lời tựa của Das Kapital:
Phương pháp biện chứng của tôi không chỉ khác với Hegels, mà đối chọi hẳn. Đối với Hegels, quy trình sống của bộ não con người, nghĩa là quy trình tư duy, mà dưới cái tên ý tưởng, ông thậm chí biến nó thành một chủ thể độc lập, là người tạo ra thế giới thực và thế giới thực chỉ là hình thức bề ngoài, là hiện tượng của ý tưởng. Theo tôi thì ngược lại, cái lý tưởng không là gì khác hơn cái thế giới vật chất được phản ánh bởi trí khôn con người và được đổi thành những hình thức của tư tưởng.
Tuy văn phong của Mác có quá triết học và quá bút chiến, ta vẫn phải nhìn nhận rằng quan điểm của ông về lịch sử chứa đựng điều gì vĩ đại, thông minh và sâu sắc. Bằng những lối đặt câu hỏi của ông, ông thức tỉnh chúng ta khỏi sự ngu dốt mà chúng ta không bao giờ nhận ra. Những câu hỏi của ông mở ra những chiều kích giấu ẩn của lịch sử. Sau Mác, cả những sử gia không theo chủ nghĩa Mác cũng không bao giờ thảo mãn với tất cả những câu trả lời cũ.
Những người theo chủ nghĩa Mác sẽ gọi cuộc khám phá những chiều kích giấu ẩn này là Khoa Học Xã Hội của họ và họ coi nó là một phương trị liệu. Mác lý luận rằng, để khám phá ra chân lý đơn sơ rằng những tư tưởng thống trị của mỗi thời đại đã luôn luôn là những tư tưởng của giai cấp thống trị, cần phải giải phóng giai cấp vô sản mới khỏi những ý tưởng của giai cấp thống trị cả họ và khỏi ảo tưởng rằng đó là những Chân lý phổ quát. Hiểu biết lịch sử không chỉ là một con đường dẫn đến nhận thức, mà là con đường duy nhất. Cũng như người tin theo Chúa Giêsu được giải phóng khỏi những thần ngoại giáo, thì người tin theo Mác cũng được giải phóng khỏi sự nô lệ những thần tượng được tạc ra bởi những người kiểm soát bộ máy sản xuất. Thánh Augustinô đã đưa Kitô giáo vào một khuôn lịch sử bằng cách lấy định hướng từ một biến cố duy nhất và đi đến một cùng đích thần linh. Và anh em sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng anh em. Các người theo chủ nghĩa Mác sẽ không nói ngược lại chân lý này của thánh Gioan, vì Mác, giống như thánh Augustinô và Vico, tin rằng phương pháp chữa trị cảm giác bất lực của con người chính là hiểu biết thực sự dòng lịch sử. Như thế, lịch sử đã trở thành phương pháp trị liệu.
Nhiều chiều kích giấy ẩn khác của quá khứ đã được khám phá bởi Sigmund Freud (1856-1936). Không đi lại nhiều và không phải nhà tổ chức chính trị, ông sống một đời sống học giả bình lặng ở Vienna, từ khi ông lên 3 tuổi. Cha ông làm nghề buôn len, có quan điểm chính trị phóng khoáng, gặp khó khăn trong đời sống tài chánh gia đình. Sinh ra là người Do Thái, ông đã trở thành một thành viên tích cực của Hội Bnai Brith và rất thuộc các truyền thống Do Thái. Sống trong bầu không khí bài - Do Thái tại thành phố Vienna, lai lịch Do Thái của Freud đã luôn luôn hạn chế những cơ hội của ông và không ngừng ảnh hưởng suy tư của ông. Là một sinh viên chăm chỉ và thành công, lúc đầu ông thích học Luật. Ông đã nhớ lại những sở thích của mình khi ông vào đại học năm 1873:
cả dạo đó cũng như về sau, tôi không bao giờ thích trở thành một bác sĩ. Đúng ra là tôi bị thu hút bởi một sự hiếu kỳ, mà dù sao vẫn là về những mối quan tâm nhân bản hơn là về những sự vật trong thiên nhiên; tôi cũng không hề hiểu được tầm quan trọng của việc quan sát như là phương thế tốt nhất để thỏa mãn nó. Tôi đã quen với các câu chuyện Kinh Thánh từ rất sớm (hầu như trước cả khi tôi biết đọc), nên sau này tôi nhận ra điều đó đã tạo hiệu quả lâu bền trong việc định hướng sự quan tâm của tôi... Đồng thời, các lý thuyết của Darwin, rất được quan tâm, thời đó, đã thu hút tôi một cách mãn liệt, vì chúng hứa hẹn một sự tiến bộ kỳ lạ trong việc chúng ta hiểu biết thế giới; và chính nhờ được nghe một bài tiểu luận rất hay của Goethe về Thiên Nhiên được đọc to tiếng tại một giờ học... ngay trước khi tôi rời trung học đã làm tôi quyết định trở thành một sinh viên y khoa.
Đối với Freud cũng như đối với Mác, chính mối quan tâm rộng lớn về nhân bản đã biến ông trở thành người tiên phong trên vùng ranh giới của khoa học.
Theo nhận xét của Brunô Bettelheim, tính chất bí ẩn của mọi kinh nghiệm con người chính là cái đã kích thích Freud và cuối cùng đã thu hút toàn thể nghị lực của ông. Điều này cũng cắt nghĩa tại sao ông đã chuyển từ việc chữa trị cơ thể con người sang chữa trị tâm hồn con người. Freud bắt đầu sự nghiệp chuyên môn của mình trong một phòng thí nghiệm sinh trong khi tìm cách chứng minh định đề của Hermann Helmholtz rằng Không có những lực nào khác ngoài các lực lý hóa thông thường hoạt động bên trong cơ thể. Freud đã mô tả kinh nghiệm này trong cuốn Tiểu Sử Tự Thuật như một khúc ngoặt của các khoa học tự nhiên, khoa y học và khoa trị liệu tâm lý ra khỏi những vấn đề văn hóa từng mê hoặc người thanh niên vừa mới được đánh thức vào đời sống tư duy sâu xa.
Thời kỳ chàng sinh viên trẻ Freud học ở Sperl Gymnasium tại Vienna từ 9 tuổi tới 17 tuổi mang đậm nét của nền văn hóa Hi Lạp và La Tinh và ông suốt đời giữ mãi niềm đam mê đối với văn hóa cổ điển. Các tác phẩm có ảnh hưởng nhất của ông chứa đầy những từ và kiểu nói Hi Lạp: Eros và Oedipus và Psyche (tiếng Hi Lạp có nghĩa là linh hồn) và nhiều từ khác nữa. Từ hồi còn bé và dù có những khó khăn tài chánh, Freud luôn luôn mê say thú sưu tầm những pho tượng cổ và đây là sự quá đáng duy nhất của ông ngoài việc hút hai mươi điếu thuốc mỗi ngày. Khi ông mua được cuốn Troa của Schliemann, ông cảm thấy thích thú với câu truyện tác giả kể về niềm hi vọng của ông hồi nhỏ là khám phá ra thành phố bị chôn vùi dưới đất. Freud đã tổng quát hóa sự kiện này thành một bài học cho cuộc đời của chính mình và cho chính những nền tảng của khoa tâm phân học. Người dàn ông ấy hạnh phúc khi tìm ra kho báu của Priam, vì niềm hạnh phúc duy nhất là sự thỏa mãn niềm mơ ước của tuổi thơ. Định nghĩa của ông về hạnh phúc là sự hoàn thành theo sau của một niềm ao ước tiền sử. Chính vì thế mà tại sao tiền bạc đem lại ít hạnh phúc như thế: là vì tiền không phải là niềm mơ ước của tôi khi còn nhỏ. Sự quyến rũ của những đồ vật cổ là một động lực trong đời ông, như ông đã nhận thấy mình sung sướng thế nào khi mua được một bức tượng Rôma ở Innsbruck năm 1889 hay ông đã thích thú thế nào khi đọc cuốn Lịch Sử Văn Hóa Hi Lạp của Burckhardt.
Những chuyến đi lại quan trọng trong đời ông là những cuộc đi thăm Rôma và Athen, cũng là một tiêu điểm khác cho mối quan tâm sâu rộng của ông về các nguồn gốc. Freud trong khi đồng hóa mình với Hannibal người Sêmít, đã đồng hóa những khó khăn của mình để đi đến Rôma với chủ nghĩa bài - Do Thái đã từng từ chối chức vụ giảng dạy đại học của ông tại Vienna. Lần đầu tiên khi đến được Rôma, ông đã bị mê hoặc bởi những đồ vật cổ của Viện Bảo Tàng Vatican, đặc biệt là tượng Laocoon và tượng Apollo Belvedere. Tại Athen, khi đến thăn Acropolis, ông đã bị choáng ngợp đến mức không thể tin nổi lại có thể có điều gì xinh đẹp đến thế, một cảm giác mà ông không bao giờ mất.
Sự say mê của Freud về khảo cổ học không đơn thuần là một thú vui, mà nó biểu lộ sự tìm kiếm của ông về toàn bộ di sản chưa biết đến của quá khứ. Ở tuổi 40, chuyển từ thế giới của Helmholtz và của khoa thần kinh học sang thế giới của văn hóa và lịch sử, ông quyết tâm đi vào khảo cổ học về linh hồn, về psyche. Những tầng kinh nghiệm chưa được nghiên cứu cả của xã hội và của cá nhân là mảnh đất khai quật của ông. Mỗi giai đoạn trước của sự phát triển, ông nhận xét, tiếp tục tồn tại song song với giai đoạn sau được phát sinh từ giai đoạn trước. Theo ông, những ký ức chưa được đào bới của chúng ta là những cổ vật của khảo cổ học về con người. Rõ ràng đây là một lý do tại sao ông gán một tầm quan trọng lớn như thế cho việc nhớ lại những kinh nghiệm của tuổi thơ.
Những vấn đề trọng tâm của đời sống con người, theo Freud, là ở những chiều kích kín ẩn của nó, trong đời sống tâm linh không có gì bị biến mất một khi nó dã được hình thành... mọi cái đều được bảo tồn một cách nào đó. Freud thấy rằng những thất vọng và xung đột của con người nảy sinh không phải từ những gì họ đã quên đi, nhưng từ những ký ức bị chôn vùi mà họ không ý thức đến. Những nghệ thuật của Trí nhớ ngày nay có thể được sử dụng để phục vụ cho việc con người tự khám phá mình hay không? Khám phá quá khứ sẽ không chỉ là một kinh nghiệm thích thú mà là một con đường giải phóng. Những người mắc chứng cuồng loạn không thể thoát ra khỏi quá khứ mà vì thế mà họ không để ý gì đến những hiện thực và trực tiếp. Vấn đề của mọi người loạn thần kinh là ở chỗ họ bị cắm chặt vào một chỗ nào đó trong quá khứ của họ. Theo Freud, hiểu biết lịch sử nội tâm của một người sẽ trở thành một phương pháp trị liệu.
Không có những phương trình lý-hóa nào có thể giải thích đời sống con người. Vì trí nhớ là một cấu tố đặc trưng của con người và trừ khi các tầng kinh nghiệm được khám phá, cả xã hội lẫn cá nhân đều không thể hiểu biết chính mình.
Theo cách thức của mình, Freud cũng sẽ là một Paracelsus. Những chứng bệnh nan y của tinh thần phải có những phương thuốc chữa trị. Những nhà chuyên môn sẽ bị lay động bởi tinh thần nghiệp dư của khoa phân - Tâm học của Freud. Trong khi làm việc giữa các ống nghiệm, Freud vẫn luôn luôn là một nhà nhân bản và một nhà văn học. Chìm ngập trong văn học cổ điển, ông có ý thức sinh động về người yêu của Eros, nàng thiếu nữ Psyche của thần thoại Hi Lạp, một người con gái xinh đẹp đến nỗi thần Vệ Nữ ghen tuông phải làm cho nàng ngủ mê. Ông sẽ không bao giờ tách rời được cái mơ hồ và mập mờ của kho văn học sống động của ông ra khỏi ngôn ngữ và phương pháp của ông. Khi giới y học Mỹ muốn hạn chế việc thực hành tâm phân học cho những bác sĩ được dào tạo chuyên môn, Freud đã mạnh mẽ chống đối khuynh hướng rõ ràng của Mỹ là biến khoa tâm phân học thành một nàng hầu của khoa Tâm bệnh học. Hình như ông chọn những thuật ngữ ưa thích của ông vì hàm ý văn chương sâu xa của chúng. Nhiều lần ông phản đối việc người ta dịch các từ Ich (cái Tôi) và Es (cái Nó) và Tâm phân học (phân tích Tâm hồn của ông thành những biệt ngữ chính xác thật kêu là Egos, Ids và Superegos. Ngay từ năm 1905, Freud đã nhận xét, Psyche là một từ Hi Lạp và dịch sang tiếng Đức là Seele, tâm hồn. Điều trị tâm lý do đó là điều trị tâm hồn [Psyche ist ein griechisches Wort lautet in deutscher Ubersetzung Seele. Psychische Behandlung heisst demnach Seelenbehandlung]. Oái oăm thay, tại Mỹ là nơi Freud được công khai nhìn nhận lần đầu tiên, những tư tưởng của ông đã mau chóng bị giới hạn vào ngành y khoa và vì thế làm mất đi sự bí ẩn của cái quá khứ tiền sử mà Freud đã khám phá ra nơi mỗi con người.
Còn tiếp