Ông được giao nhiệm vụ làm tuyên huấn Trung đoàn Pháo binh 40, Quân đoàn 3 hay còn gọi là Binh đoàn Tây Nguyên. Để viết được tin bài tuyên truyền cho Trung đoàn, ông phải nghe đài để lấy thông tin, cập nhật tin tức từ hậu phương, tuyền tuyến và cũng là để học cách viết.
“Làm tuyên huấn, tuyên truyền mà không bám sát đơn vị, không xông vào trận địa cùng đồng đội thì không thể viết được”, ông Thùy tâm sự.
Chiến tranh kết thúc, năm 1977 ông phục viên. Với chút ít kiến thức và kinh nghiệm làm báo, ông được cơ quan cử đi học thêm nghiệp vụ tại Trường Công nhân kỹ thuật phát thanh (nay là Trường Cao đẳng Phát thanh Truyền hình 1). Tốt nghiệp, ông vào làm việc trong đội chiếu bóng quốc doanh Hà Bắc cho đến năm 1987 thì về công tác tại địa phương.
Gần 10 năm trời, đi hết làng này bản kia chiếu bóng, ông thấu hiểu được sự thiếu thốn thông tin của bà con. Chính điều đó đã thôi thúc ông lập “Đài Phát Thanh Bản Gà”. Ông nhớ lại: “Có lần đội chiếu bóng về phục vụ đồng bào người Dao, khu suối Hai, xã Vân Sơn, trong phim Chiến tranh thế giới thứ 2 có cảnh máy bay thả bánh mỳ cứu trợ xuống đất. Người dân trong bản không hiểu đã chạy ào lại nhặt. Bới tung cả đống đất không thấy bánh mỳ đâu, họ đã quay sang trách móc cán bộ tham lam, đã giấu đi mất. Còn khi đến cận cảnh một khẩu súng nổ, dân bản sợ quá chạy nháo nhác. Anh em chúng tôi vừa xót xa vừa thương không biết giải thích thế nào cho đồng bào hiểu. Ngay cả mẹ tôi cũng vậy.
Mọi kết nối với thế giới bên ngoài của bà con trong bản đều qua chiếc đài của một thời vào sinh ra tử với ông Thùy. Nhưng “kỷ vật chiến trường” đã già, tiếng nhỏ, lại hay tậm tịt. Thương bà con trong bản đói thông tin, nhận thức hạn hẹp ông bàn với vợ rồi “bấm bụng” bán con lợn cùng mấy tạ ngô lấy 400 nghìn để mua chiếc đài mới.
Cho đến 1980 ông đầu tư thêm 3 cái loa phát thanh mắc từ đầu đến cuối bản để cả bản được nghe “Tiếng nói Việt Nam” vào mỗi sáng từ 5h cho đến 6h30 phút và từ 17h đến 18h30 phút buổi chiều. Sau đó ông xin phép cán bộ văn hóa mở “Đài phát thanh bản Gà”, với nhạc hiệu là bài hát “Cô giáo người Tày”. Các chương trình với thời lượng từ 5 đến 10 phút về cuộc sống thường ngày của bà con trong bản được phát trực tiếp tại nhà ông.
Ông lập đài từ năm 1987. Vì không nằm trong biên chế của thôn xã, gần 30 năm “vác tù và hàng tổng” ông chưa bao giờ nhận một đồng lương nào. Tất cả tiền khen thưởng ông đều đầu tư mua trang thiết bị cho đài ngày càng hoàn thiện hơn.
Vào một ngày cuối tháng 12 năm 2005 ông bị tai nạn giao thông trên đường đi lấy tin làm chương trình tuyên truyền về dịch lở mồm long móng. Tai nạn đã làm ông liệt nửa người, việc đi lại rất khó khăn. Với tâm niệm: “Dù trong hoàn cảnh nào cũng phải đảm bảo mọi người dân trong bản được nghe đài”, vượt qua mọi khó khăn về vật chất, tuổi tác, bệnh tật với niềm yêu nghề, ham học hỏi, sáng tạo các chương trình do ông làm đã đáp ứng được nhu cầu thông tin, mang lại những lợi ích thiết thực, được bà con trong bản yêu thích.
Thành tích Đài phát thanh bản Gà: Năm 1992, 1993, 1999 được Bộ VH-TT tặng giấy khen vì thành tích xuất sắc trong sự nghệp củng cố, phát triển phát thanh ở địa phương. Huân chương lao động hạng ba; giải nhất liên hoan phát thanh Toàn quốc lần thứ VII, tháng 8/2005. Bằng khen trong phong trào thi đua thời kỳ đổi mới (1987 - 2000). |