Một người Đức yêu Hà Nội cứ mỗi sáng dạo bộ 5 vòng quanh hồ Gươm, đã nảy ra ý tưởng dùng công nghệ hiện đại để bảo tồn dòng lục thủy ngàn năm đang ô nhiễm và cạn kiệt từng ngày.
Ý tưởng này đã phát triển thành một dự án được giới khoa học Việt Nam đánh giá là quy mô và phù hợp nhất từ trước tới nay liên quan đến việc bảo tồn hồ Gươm và loài rùa.
Dự án thí điểm ở một hồ khác làm căn cứ để thực thi tại hồ Gươm đã được Bộ Khoa học Công nghệ gửi UBND TP Hà Nội.
Giải pháp của người Đức
Giáo sư Peter Wener là nhà khoa học Đức công tác tại trường ĐHKT Dresden. Ông từng tới Việt Nam 20 lần trong nhiều dự án giúp Việt Nam xử lý môi trường nước.
Bắt đầu từ ý tưởng làm sạch nước hồ Gươm của ông, các nhà khoa học Đức và Việt Nam đã bắt tay vào nghiên cứu, khảo sát sơ bộ hồ Gươm để lên phương án công nghệ và lộ trình nghiên cứu. Ngày 11/10/2005 được coi là cột mốc quan trọng đánh dấu sự hợp tác giữa Bộ Khoa học Công nghệ Việt Nam và Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Cộng hòa liên bang Đức trong việc nghiên cứu xử lý các vấn đề của hồ Gươm.
Đầu tiên, phía Đức dùng kỹ thuật địa chất thủy văn hiện đại khảo sát cấu trúc tầng bùn đáy của hồ, đánh giá chính xác thể tích và sự phân bổ tầng bùn để quyết định tiến trình hút bỏ bùn.
Theo tính toán của các nhà khoa học, Hồ Gươm dự kiến được chia thành nhiều tiểu vùng. Có thể ngăn cách giữa các tiểu vùng này bằng lưới sắt. Lưới từ trên cao chụp xuống, mở dần dần cho đến khi chạm đáy để lùa hết các loài thủy sinh ra ngoài lưới.
Thay vì dùng máy hút bùn sục thẳng từ trên xuống, một máy hút nhỏ sẽ lặn sâu dưới lớp trầm tích và hút từ bên dưới. Bùn theo đó sụt dần xuống một cách êm ái. Các loài thủy sinh sẽ không bị hút ra ngoài theo bùn. Toàn bộ số bùn này theo đường ống được đưa lên bờ, có thể làm phân bón hoặc ép thành bánh chở đi nơi khác.
Việc hút bùn chỉ thực hiện ở 1 tiểu vùng. Sau 3 tháng thực hiện tiếp ở 1 tiểu vùng khác. Cứ như vậy trong vòng 2 năm, toàn bộ hồ sẽ được làm sạch. Trong vòng 3 tháng đó, nước từ các tiểu vùng chỉ còn lại cân bằng cho tiểu vùng vừa bị xáo trộn. 3 tháng cũng là thời gian để các nhà khoa học xem xét hệ sinh thái lòng hồ có thích ứng hay không.
Trong thời gian đó, cụ Rùa sẽ được chăm sóc đặc biệt.
“Ưu điểm của phương pháp này là không phải hút cạn nước hồ rồi mới nạo vét, bề mặt đáy hồ sẽ rất ít bị khuấy trộn, tránh gây đục nước hồ, hạn chế hòa tan những chất độc hại có trong bùn gây ô nhiễm nước. Việc chia hồ thành các tiểu vùng nhỏ trong một thời gian thích hợp gây ra xáo trộn không đáng kể đối với hệ sinh thái của hồ” – Chủ nhiệm bộ môn Địa sinh thái, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Môi trường địa chất – GS. TSKH Bùi Học, cho biết.
Trở về từ Đức sau 12 năm học tập, nghiên cứu, cựu sinh viên khoa Công nghệ sinh học, ĐH Quốc Gia Hà Nội, nay là Giám đốc một công ty về xử lý môi trường, TS Lê Hùng Anh, nhận xét: “Tôi đã chứng kiến người Đức ứng dụng công nghệ này làm sạch nhiều hồ sinh thái của nước họ rất hiệu quả. Đây là công nghệ xử lý nước tiên tiến nhất của Đức hiện nay. Chiếc máy hút bùn dự định sử dụng ở hồ Hoàn Kiếm rất nhỏ, không gây ồn, không gây chú ý, hoàn toàn có thể làm việc với máy cả ngày và đêm”.
PTS Hà Đình Đức, hồ hởi: “Giải pháp này tôi cho là phù hợp nhất từ trước đến nay, cả về mặt khoa học và tâm linh người Việt”.
Chờ câu trả lời
Cùng lên tiếng với các nhà khoa học Việt Nam, ngày 3/8/2006, Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ Trần Quốc Thắng ký công văn gửi UBND TP Hà Nội đề nghị được thử nghiệm giải pháp của Đức tại một hồ có các đặc tính tương tự hồ Gươm.
Hồ Ba Mẫu dự kiến được lựa chọn để thử nghiệm. Đối tác Đức tuyên bố tài trợ cho Việt Nam 1 triệu euro chỉ riêng cho việc quan trắc, nghiên cứu và thử nghiệm.
“Tuy nhiên đến thời điểm này, chúng tôi vẫn chưa nhận được câu trả lời nào của lãnh đạo UBND TP Hà Nội” – Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ KHCN, TS Phạm Huyền cho biết.
Tiếp xúc với chúng tôi, nhiều nhà khoa học khẳng định, TP Hà Nội cẩn trọng là đúng nhưng không đồng tình khi lãnh đạo TP không hề có động thái nào trước một giải pháp mà dư luận hết sức quan tâm.